VIÊM NÃO NHẬT
BẢN
1. Định nghĩa
Viêm não Nhật Bản (VNNB) là một bệnh nhiễm
trùng cấp tính gây ra bởi một loại siêu vi trùng thuộc nhóm Arbovirus có ái
tính với tế bào thần kinh, có tên là virút viêm não Nhật Bản. Virút lây truyền
qua người nhờ trung gian là muỗi. Bệnh có thể xảy ra rải rác hay thành dịch.
Tùy theo mức độ và vị trí bị tổn thương tại
hệ thần kinh trung ương (HTKTW), lâm sàng sẽ có biểu hiện triệu chứng của nơi
bị xâm phạm như: viêm não, viêm màng não, viêm sừng trước tủy sống hoặc bệnh
cảnh phối hợp: viêm não màng não, viêm não màng não tủy sống.
2. Tác nhân gây bệnh
Virút VNNB thuộc họ Togaviridae trong
nhóm B của các Flavivirus.
Hình thái:
Hình
cầu, nhân chứa ribonucleic acid (RNA), kích thước 45 - 50nm, bao quanh bởi cấu
trúc hình khối gọi là capsid, phần vỏ giàu chất lipid.
Sức để kháng:
Virút VNNB dễ mất hoạt lực ở nhiệt độ 560C
trong nửa giờ hoặc formalin 0,2%, ether, Na deoxycholate, bị bất hoạt nhanh bởi
tia tử ngoại.
Nuôi cấy:
Có thể nuôi cấy virút trên tế bào thận heo,
thận chuột, trên não chuột bạch sơ sinh, não chuột bạch trưởng thành hoặc trên
tế bào của tổ chức côn trùng như muỗi.
Virút VNNB có ba loại protein kháng nguyên:
protein màng M, protein lõi C, protein vỏ E. Kháng nguyên vỏ E đóng vai trò
quan trọng nhất trong bước đầu tiên của phản ứng virút với tế bào ký chủ và tạo
ra kháng thể miễn dịch bảo vệ cơ thể.
3. Dịch tễ học
VNNB lưu hành rộng rãi ở các nước trong vùng
Đông Á, Nam Á, và Đông Nam Á trong đó có Việt Nam.
Bệnh đã được nói tới vào đầu thập niên 1870
tại Nhật Bản mãi đến năm 1924 mới biết rõ về lâm sàng qua trận dịch lớn với
6.000 trường hợp, và tỷ lệ tử vong vào khoảng 60%, bệnh được gọi là "viêm
não mùa hè". Năm 1935 người ta phân lập được virút từ não của một bệnh
nhân tử vong tại Tokyo, và cung cấp được chủng Nakayama nguyên mẫu. Virút này
được gọi là virút VNNB B có liên quan đến dịch viêm não mùa hè tại Nhật Bản.
Năm 1952, virút VNNB đầu tiên được phân lập
từ một lính viễn chinh Pháp tại miền Bắc Việt Nam, tiếp theo đó năm 1953 có 98
trường hợp VNNB trong quân đội viễn chinh Pháp.
Trong thập kỷ 1960 có nhiều trận dịch viêm não
siêu vi được gọi là hội chứng viêm não cấp tính gọi tắt là hội chứng não cấp
(HCNC), xảy ra tại hầu hết các địa phương ở miền Bắc, nhất là ở miền trung du
và vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng, có nơi tỷ lệ mắc bệnh hằng năm lên tới 6
- 10/100.000 dân với tỷ lệ tử vong từ 5,7% - 28,5% và siêu vi VNNB là tác nhân
gây ra 50% - 70% HCNC.
Tại miền
Nam viêm não siêu vi xảy ra rải rác quanh năm, số mắc cao nhất vào năm 1980 với
tỷ lệ 4,95/100.000 dân và tỷ lệ tử vong 27,46%, thưòng tập trung nhiều ở đồng
bằng sông Cửu Long vựa lúa của miền Nam, nơi có thói quen nuôi heo gần nhà.
Chưa tiến hành nghiên cứu có hệ thống tại đây, nhưng qua kết quả báo cáo sơ bộ
của bệnh viện lớn tại TP. HCM, từ 64% - 69% hội chứng não cấp nhập viện có tác
nhân gây bệnh là virút VNNB, với tỷ lệ tử vong vào khoảng 16%.
Về mặt dịch tễ học bệnh VNNB có đặc điểm
chung như sau:
Nguồn
lây:
Chim là vật chủ quan trọng chứa virút VNNB.
Người ta phân lập được virút VNNB từ nội tạng của chim hoang dã (chim
liếu điếu, và một số loại chim khác), chim mang virút huyết kéo dài nhưng lại
không biểu hiện bệnh, và nguồn lây nhiễm cho các loài muỗi trong thiên nhiên.
Qua điều tra giám sát về huyết thanh, hầu hết
gia súc gần người như trâu bò, dê, cừu, chó, đều có thể nhiễm virút VNNB, nhưng
chỉ có heo, ngựa có biểu hiện bệnh, như viêm não ở ngựa, virút có thể qua nhau,
nhiễm bào thai ở heo nái và gây thai chết, hoặc xẩy thai. Tuy nhiên chỉ có heo
là nguồn nhiễm virút huyết quan trọng truyền cho muỗi vì: (1) Heo đẻ được nhiều
lứa, tạo ra số lượng một quần thể heo cảm nhiễm mới (2) Luân chuyển thường
xuyên mỗi 6 - 8 tháng (3) Chỉ số heo nhiễm virút trong tự nhiên cao hơn tất cá
gia súc khác (4) Nhiễm virút máu ở heo thường cao nên dễ truyền virút qua muỗi.
Trung
gian truyền bệnh:
Hiện nay người ta đã phát hiện được virút
VNNB ở 30 loài muỗi khác nhau thuộc 5 họ Culex,
Anopheles, Aedes, Mansoni va Amergeres, trong đó có 2 loại C. Tritae, C. vishnui là vật chủ trung
gian có khả năng truyền bệnh cao. Muỗi hút máu động vật là heo, chim trong thời
kỳ nhiễm virút huyết, virút nhân lên trong muỗi với hiệu giá cao, sau đó có khả
năng truyền bệnh suốt đời và có thể truyền virút sang thế hệ sau qua trứng.
Phân bố theo mùa
Khí hậu với những yếu tố nhiệt độ và mưa cũng
có ảnh hưởng đến tình hình bệnh. Vào mùa mưa, ruộng lúa đầy nước tạo điều kiện
tốt cho muỗi sinh sản và phát triển mạnh trong thiên nhiên, trùng hợp với thời
điểm bệnh xảy ra nhiều.
Vào mùa hè thời tiết nóng, ở nhiệt độ từ 270C
- 300C, virút thường phát triển tốt trong cơ thể muỗi. Nếu dưới 200C
thì sự phát triển của virút dừng lại.
Đó là lý do tại sao mô hình dịch tễ học lại
khác nhau giữa hai miền Nam, Bắc Việt Nam.
Tại Miền Bắc bệnh giảm nhiều vào những tháng
lạnh, tăng vào những tháng hè và đỉnh cao vào tháng 5 - 6 - 7. Tại miền Nam,
thời tiết nóng bệnh rải rác quanh năm.
Phân
bố theo tuổi:
Tất cả mọi lứa tuổi chưa có miễn dịch đều có
thể mắc bệnh. Ở những vùng có bệnh VNNB lưu hành, trẻ em sớm tiếp xúc với tác
nhân gây bệnh nên tỷ lệ mắc bệnh ở trẻ cao thường từ 2 - 10 tuổi, phần đông ở
thể không triệu chứng lâm sàng, số lượng trẻ có kháng thể đặc hiệu tăng theo
tuổi nên tỷ lệ mắc bệnh giảm ở trẻ lớn và người lớn.
BỆNH SỐT XUẤT HUYẾT
Bệnh sốt xuất huyết Dengue
(SXHD) là bệnh nhiễm vi rút Dengue cấp tính do muỗi truyền và có thể gây thành
dịch lớn. Đây là bệnh dịch lưu hành địa phương ở Việt Nam, nhất là ở các tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long, đồng bằng Bắc bộ và
vùng ven biển miền Trung.
Do đặc điểm địa lý,
khí hậu khác nhau, ở miền Nam và miền Trung bệnh xuất hiện quanh năm, ở miền
Bắc và Tây Nguyên bệnh thường xảy ra từ tháng 4 đến tháng 11. Ở miền Bắc những
tháng khác bệnh ít xảy ra vì thời tiết lạnh, ít mưa, không thích hợp cho sự
sinh sản và hoạt động của Aedes aegypti.
Bệnh SXHD phát triển nhiều nhất vào các tháng 7, 8, 9, 10 trong năm.
Chẩn đoán xác định
trong phòng thí nghiệm bằng phân lập/ phát hiện vật liệu di truyền hoặc kháng
nguyên vi rút trong máu trong vòng 5 ngày đầu kể từ khi sốt hoặc phát hiện kháng
thể kháng vi rút Dengue IgM đặc hiệu trong huyết
thanh từ sau ngày thứ 5.
Tác nhân gây bệnh: do vi rút Dengue
thuộc nhóm Flavivirus, họ Flaviviridae với 4 típ huyết thanh DEN-1,
DEN-2, DEN-3 và DEN-4.
Thời kỳ ủ bệnh và lây truyền:
Thời kỳ ủ bệnh từ 3-14 ngày, trung bình từ 5-7 ngày. Bệnh nhân là nguồn lây
bệnh trong thời kỳ có sốt, nhất là 5 ngày đầu của sốt là giai đoạn trong máu có
nhiều vi rút. Muỗi bị nhiễm vi rút thường sau 8-12 ngày
sau hút máu có thể truyền bệnh và truyền bệnh suốt đời.
Tính cảm nhiễm và sức đề kháng: Mọi
người chưa có miễn dịch đặc hiệu đều có thể bị mắc bệnh từ trẻ sơ sinh cho đến người
lớn. Sau khi khỏi bệnh sẽ được miễn dịch suốt đời với típ vi rút Dengue gây
bệnh nhưng không được miễn dịch bảo vệ chéo với các típ vi rút khác. Nếu bị mắc
bệnh lần thứ hai với típ vi rút Dengue khác, có thể bệnh nhân sẽ bị bệnh nặng hơn
và dễ xuất hiện sốc Dengue.
Véc tơ truyền bệnh: Bệnh không lây
truyền trực tiếp từ người sang người mà do muỗi đốt người bệnh truyền vi rút
sang người lành qua vết đốt. Ở Việt Nam, hai loài muỗi truyền bệnh SXHD là Aedes aegypti và Aedes albopictus, trong đó quan trọng nhất là Aedes aegypti.
Phòng chống bệnh SXHD: Đến nay, bệnh SXHD chưa có thuốc điều trị
đặc hiệu và chưa có văcxin phòng bệnh, vì vậy diệt véc tơ đặc biệt là diệt bọ
gậy (lăng quăng) với sự tham gia tích cực của cộng đồng là biện pháp hiệu quả
trong phòng chống SXHD.
Giảm nguồn sinh sản của véc tơ
Lăng quăng muỗi Aedes (muỗi vằn) có thể phát triển ở các
dụng cụ chứa nước trong nhà và xung quanh nhà, vì vậy xử lý dụng cụ chứa nước để
làm giảm nguồn sinh sản là biện pháp rất hiệu quả trong phòng chống véc tơ.
a. Xử lý dụng cụ chứa nước
-
Dụng
cụ chứa nước sinh hoạt (chum vại, bể nước mưa, cây cảnh...): dùng các biện pháp
ngăn ngừa muỗi sinh đẻ (có nắp đậy thật kín, thả cá...).
-
Dụng
cụ chứa nước phế thải (lốp xe hỏng, vật dụng gia đình bỏ không...): thu dọn và
phá huỷ.
-
Các
hốc chứa nước tự nhiên (hốc cây, kẽ lá, gốc tre nứa...): loại bỏ, lấp kín, chọc
thủng hoặc làm biến đổi.
b.
Chống muỗi đẻ trứng trong các dụng cụ tích trữ nước (chum, vại,
phuy, bể...)
-
Đậy thật kín bằng nắp hoặc vải để ngăn không
cho muỗi đẻ.
-
Thả
cá và các tác nhân sinh học khác
-
Chọc
thủng hốc cây, bịt lấp đỉnh cọc rào, lọc nước loại bỏ bọ gậy, dội nước sôi vào
thành vại để diệt bọ gậy và trứng khi
còn chứa ít nước...
-
Đối với bẫy kiến, lọ hoa, chậu cây cảnh, khay nước tủ
lạnh hoặc điều hoà nhiệt độ: Dùng dầu hoặc cho muối vào, thay nước 1 lần/tuần,
cọ rửa thành dụng cụ chứa nước để diệt trứng
muỗi Aedes aegypti, Aedes albopictus.
c.
Loại trừ ổ bọ gậy
-
Thu dọn, phá hủy các ổ chứa nước tự nhiên hoặc nhân tạo (chai, lọ,
lu, vò vỡ, vỏ đồ hộp, lốp xe hỏng, vỏ dừa...) cho vào túi rồi chuyển tới nơi
thu gom phế thải của địa phương hoặc huỷ bỏ bằng chôn, đốt.
-
Lật úp các dụng cụ gia đình như xô, chậu, bát, máng nước gia cầm.
-
Xử lý hốc cây, kẽ lá cây (chuối, cọ, dừa...) bằng chọc thủng, cho
hoá chất diệt bọ gậy.
Phòng muỗi đốt: Làm lưới chắn ở cửa ra vào, cửa sổ. Ngủ màn ban ngày,
nhất là đối với trẻ nhỏ.
Xua, diệt muỗi : Bằng hương muỗi,
bình xịt thuốc cá nhân, hun khói bằng đốt vỏ cau, dừa hoặc lá cây. Treo mành
tre, rèm tẩm hoá chất diệt muỗi ở cửa ra vào, cửa sổ, vợt điện..
Định nghĩa ca bệnh:
Người sống hoặc đến từ vùng có ổ dịch hoặc lưu
hành SXHD trong vòng 14 ngày có biểu hiện sốt cao đột ngột, liên tục từ 2-7
ngày và có ít nhất 2 trong các dấu hiệu sau:
- Biểu hiện xuất huyết có thể ở nhiều mức độ
khác nhau như: nghiệm pháp dây thắt dương tính, chấm/mảng xuất huyết ở dưới da,
chảy máu chân răng hoặc chảy máu cam.
+
Nhức đầu, chán ăn, buồn nôn, nôn,
+
Da xung
huyết, phát ban.
+
Đau cơ,
đau khớp, nhức hai hố mắt.
+
Vật vã,
li bì,
+
Đau
bụng vùng gan hoặc ấn đau vùng gan.
Ths.Lý Huỳnh Kim Khánh
Nguồn: 1. Tài liệu tập huấn côn trùng y học-Viện Pasteur TpHCM
2. Hướng dẫn giám sát và phòng chống SXH 2011 do Bộ Y Tế ban hành